TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------------- Số: 05/BC-TA | | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – tự do – Hạnh phúc ----------------- Hà Nội, ngày 18 tháng 1 năm 2013 |
BÁO CÁO
TỔNG KẾT CÔNG TÁC NĂM 2012 VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
CÔNG TÁC NĂM 2013 CỦA NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN
Năm 2012, ngành Tòa án nhân dân triển khai công tác trong điều kiện kinh tế nước nhà còn gặp nhiều khó khăn; tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp. Trong bối cảnh chúng ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và đẩy mạnh công cuộc chỉnh đốn và xây dựng Đảng, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước tăng cường các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước trong năm qua tiếp tục được giữ vững và ổn định.
Về tình hình liên quan tới nhiệm vụ chính trị của ngành, thời gian qua tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án vẫn có xu hướng gia tăng; do thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các vụ án hành chính được mở rộng, nên số lượng các vụ án hành chính mà các Tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Cùng với yêu cầu làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, ngành Toà án nhân dân còn phải tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đặc biệt là việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Ngoài ra, ngành Tòa án còn tiếp tục triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội mà trọng tâm là việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị; tổ chức tổng kết việc thi hành các quy định của Hiến pháp năm 1992 và đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp liên quan tới tổ chức và hoạt động của Tòa án; tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và thực hiện tốt công tác quản lý ngành nhằm đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc cho các Tòa án, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh...
A. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ CÔNG TÁC
CỦA NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN
Trên cơ sở quán triệt nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; căn cứ vào tình hình yêu cầu nhiệm vụ, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao đã chủ động đề ra các chương trình, kế hoạch hoạt động nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành trong năm 2012 với các nhiệm vụ và biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể; trong đó việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp được xác định vừa là yêu cầu và vừa là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Với sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên và sâu sát của các Đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội; sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành ở trung ương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; sự quan tâm phối hợp, giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Tòa án các cấp và sự cố gắng, nỗ lực của cán bộ, công chức trong toàn ngành, nên về cơ bản trong năm qua, ngành Tòa án nhân dân đã tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của mình.
I. VỀ CÔNG TÁC CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ
1. Về công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án
1.1. Kết quả đạt được
Toàn ngành Toà án nhân dân đã giải quyết 332.868 vụ án các loại trong tổng số 360.941 vụ án đã thụ lý (đạt 92%); số vụ án còn lại hầu hết là mới thụ lý và còn trong thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật. So với cùng kỳ năm trước, số vụ án đã thụ lý tăng 34.673 vụ; đã giải quyết tăng 33.559 vụ.
a. Về công tác xét xử các vụ án hình sự
Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã thụ lý 83.116 vụ với 146.968 bị cáo, tăng 6.222 vụ với 15.540 bị cáo so với cùng kỳ năm trước; đã giải quyết, xét xử được 81.643 vụ án với 144.448 bị cáo (đạt 98% số vụ và số bị cáo), tăng 6.629 vụ với 17.241 bị cáo; cụ thể:
- Giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 67.369 vụ với 122.960 bị cáo (trong đó có 27 vụ án với 68 bị cáo về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, 321 vụ án với 733 bị cáo về các tội tham nhũng, 15.285 vụ án với 19.260 bị cáo về các tội ma túy, 11.637 vụ án với 19.674 bị cáo về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, 26.617 vụ án với 45.866 bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu, còn lại là các tội phạm khác). Các Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tử hình và tù chung thân đối với 530 bị cáo; xử phạt tù có thời hạn 81.843 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo 25.458 bị cáo, bằng 22% (trong đó có 155 bị cáo phạm các tội về tham nhũng), còn lại là các hình phạt khác.
- Giải quyết, xét xử theo thủ tục phúc thẩm 14.119 vụ với 21.239 bị cáo và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 155 vụ với 249 bị cáo. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,5% (do nguyên nhân chủ quan 0,3% và do nguyên nhân khách quan 0,2%); bị sửa là 4,9% (do nguyên nhân chủ quan 0,3% và do nguyên nhân khách quan 4,6%). So với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 0,2%.
Trong tổng số 81.643 vụ án với 144.448 bị cáo mà toàn ngành đã giải quyết, các Tòa án quân sự giải quyết, xét xử 293 vụ với 514 bị cáo theo thủ tục sơ thẩm; 47 vụ án với 88 bị cáo theo thủ tục phúc thẩm; 01 vụ với 07 bị cáo theo thủ tục giám đốc thẩm. Tỷ lệ giải quyết các vụ án hình sự của các Tòa án quân sự đạt 92%.
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, các Toà án tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, đặc biệt là đối với các vụ án lớn, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm. Nhiều Tòa án địa phương đã giải quyết 100% các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền như: Tòa án nhân dân các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hòa Bình, Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên, Quảng Ngãi, Sóc Trăng, Vĩnh Long....; Tòa án nhân dân huyện Quảng Bình - tỉnh Hà Giang, Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái - tỉnh Yên Bái, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè - tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên - tỉnh Hà Tĩnh, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng, Tòa án nhân dân huyện Hương Thủy - tỉnh Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới - tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạch - tỉnh Bình Định... Một số Tòa án đã xây dựng được quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, định kỳ họp trao đổi, thống nhất những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, tránh tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn tới kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Trong năm qua, các vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng đều đã được các Tòa án khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đáp ứng yêu cầu chính trị của các địa phương cũng như cả nước. Điển hình là vụ án Võ Thị Thu Thủy, phạm tội “Tuyên truyền chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”; vụ án phá rối an ninh gây sức ép với chính quyền, yêu sách đòi thành lập “Vương quốc Mông” ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; vụ án Lê Văn Luyện phạm tội “Giết người” và “Cướp tài sản” ở tỉnh Bắc Giang; vụ án Trần Hoàng Anh và các đồng phạm phạm tội “Mua bán người”, “Mua bán trẻ em” có quy mô lớn nhất từ trước đến nay; vụ án do Tạ Văn Ưu và Nguyễn Văn Hồng cầm đầu trong đường dây mua bán 88 bánh heroin liên tỉnh tại Bắc Giang; vụ án Phạm Thanh Bình phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” tại tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin)...
Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo về cơ bản đảm bảo nghiêm minh, đúng quy định, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Tiếp tục quán triệt ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về khắc phục việc cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật, việc áp dụng chế định án treo đều được các Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, nên nhìn chung các trường hợp đều đảm bảo có căn cứ pháp luật. Tỷ lệ các trường hợp cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật bị hủy, sửa án giảm gần 50% so với năm 2011 và chỉ chiếm tỷ lệ 0,25% trên tổng số các bị cáo được Tòa án cho hưởng án treo. Đối với các tội phạm về tham nhũng, nhìn chung các Tòa án đều đảm bảo xét xử nghiêm khắc, đặc biệt là đối với người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản của Nhà nước, chỉ đối với những bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò thứ yếu, mức độ phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nhân thân tốt, thì mới được Tòa án xem xét để cho hưởng án treo. Một số Tòa án địa phương những năm trước đây có tỷ lệ các bị cáo phạm tội về tham nhũng được hưởng án treo cao thì nay đã giảm mạnh (ví dụ: Cà Mau có tỷ lệ án treo đối với các tội phạm về tham nhũng trong năm trước là 81% thì năm nay là 13,7%; Nghệ An, năm trước là 59%, năm nay là 21,4%; Bình Phước năm trước là 27,2%, năm nay là 9%...).
Trong hoạt động của mình, ngành Tòa án nhân dân cũng đã tích cực hưởng ứng các đợt cao điểm đấu tranh trấn áp tội phạm do Thủ tướng Chính phủ phát động, đặc biệt là đợt cao điểm được phát động trong dịp đón Tết nguyên đán 2012 và tháng cao điểm đấu tranh phòng, chống ma túy, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở từng địa bàn, thời điểm. Các Tòa án cũng đã chú trọng phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp xác định các vụ án điểm để tập trung điều tra truy tố xét xử; đồng thời, tăng cường công tác xét xử lưu động tại địa phương nơi xảy ra vụ án hoặc các địa bàn trọng điểm về một số loại tội phạm nhất định. Các Tòa án đã tổ chức 7.817 phiên tòa xét xử lưu động, tăng hơn cùng kỳ năm trước 2.032 vụ. Một số Tòa án đã làm tốt công tác này như: ngành Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh Yên Bái, Hà Giang, Hải Dương, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Đồng Tháp, Bình Dương.... Bên cạnh đó, các Tòa án còn chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và tinh thần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quần chúng nhân dân.
b. Về công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự1
Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dânán, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 0,4%. Trong năm qua, các Tòa án cũng đã thụ lý 342 yêu cầu tuyên bố phá sản, trong đó đã ra quyết định không mở thủ tục phá sản đối với 06 trường hợp, ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với 260 trường hợp (trong đó đã ra quyết định tuyên bố phá sản đối với 01 trường hợp) và trả lại đơn yêu cầu đối với 02 trường hợp. Các trường hợp còn lại đang được tiếp tục xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, các Toà án đã tổ chức thực hiện nhiều giải pháp, như: tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức; chủ động nắm bắt tiến độ và xây dựng kế hoạch công tác xét xử của đơn vị; làm tốt công tác điều động, biệt phái cán bộ, Thẩm phán; tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan..., nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết, khắc phục tình trạng để các vụ án quá hạn luật định. Một số Tòa án địa phương có tỷ lệ giải quyết các việc dân sự cao là: Tòa án nhân dân các tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Ninh Bình, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đắk Nông, Đồng Nai ... Khi giải quyết vụ án, về cơ bản, các Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, cũng như áp dụng đúng các quy định của pháp luật nội dung; quan tâm làm tốt việc hướng dẫn cho các đương sự thực hiện các nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, đồng thời tích cực xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết, theo quy định để giải quyết vụ án đúng pháp luật. Các Toà án đã chú trọng làm tốt công tác hoà giải trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, thông qua đó giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng thời góp phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân (tỷ lệ hoà giải thành trong việc giải quyết các vụ việc dân sự trong năm qua là 51%). Một số Tòa án có tỷ lệ hòa giải thành cao như: ngành Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh Trà Vinh, Tây Ninh, Đồng Tháp, Long An, Bà Riạ Vũng Tàu, Lâm Đồng.... Với việc quan tâm thu thập chứng cứ, xem xét kỹ thực địa trong quá trình giải quyết và chú trọng việc rà soát bản án trước khi ban hành, nên số lượng các bản án tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự đã giảm rõ rệt (600 trường hợp).
c. Về công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính
Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý 6.177 vụ, tăng 3.854 vụ (bằng 166%) so với cùng kỳ năm trước; đã giải quyết, xét xử được 4.742 vụ (đạt 77%), tăng 2.952 vụ. Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 3.834 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 878 vụ và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 30 vụ. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 3,5% (do nguyên nhân chủ quan 3% và do nguyên nhân khách quan 0,5%); bị sửa là 3,1% (do nguyên nhân chủ quan 2,7% và do nguyên nhân khách quan 0,4%). So với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 1,6%.
Mặc dù số lượng các vụ án hành chính tăng hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước và đây là loại án rất nhạy cảm, phức tạp, nhưng do có sự chuẩn bị chu đáo từ trước về tăng cường đội ngũ cán bộ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cũng như quan tâm làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán, cán bộ trực tiếp giải quyết, xét xử loại án này, nên công tác giải quyết, xét xử các vụ án hành chính của các Tòa án nhân dân trong thời gian qua vẫn đảm bảo về tiến độ và chất lượng giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, các Tòa án đã quan tâm tổ chức đối thoại, thông qua đó giúp giải quyết nhanh chóng và triệt để nhiều vụ án.
1.2. Hạn chế, thiếu sót
Mặc dù số lượng các vụ án để quá thời hạn giải quyết đã giảm hơn so với cùng kỳ năm trước, nhưng tình trạng này chưa được khắc phục triệt để tại Tòa án các cấp, toàn ngành còn có 869 vụ án để quá thời hạn giải quyết. Chất lượng giải quyết một số vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa cao; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán có giảm hơn so với các năm trước, nhưng chưa giảm mạnh. Việc tranh tụng tại phiên tòa ở một số vụ án còn chưa thực sự thực chất, hiệu quả. Việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm trong một số trường hợp còn thiếu tính thuyết phục. Việc ban hành các văn bản tố tụng trong một số trường hợp còn vi phạm thời hạn theo quy định của pháp luật.
Những hạn chế, thiếu sót chủ yếu trong quá trình giải quyết, xét xử các loại vụ án; cụ thể là:
- Trong công tác xét xử các vụ án hình sự: Trong năm qua còn để xảy ra 01 trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và tuyên bố bị cáo không phạm tội do giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản”. Do thiếu cẩn trọng, không xem xét đầy đủ các căn cứ khi quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự nên trong một số trường hợp, việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo còn quá nặng hoặc quá nhẹ. Vẫn còn 64 trường hợp cho bị cáo hưởng án treo thiếu căn cứ, cá biệt có trường hợp cho bị cáo phạm tội về tham nhũng được hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật. Việc tổng hợp hình phạt trong một số trường hợp không chính xác. Còn để xảy ra các sai sót trong việc quyết định bồi thường thiệt hại, xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án về vi phạm các quy định về an toàn giao thông; chống người thi hành công vụ; tiêu thụ tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có và các hành vi phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông còn nhiều sai sót.
Có Tòa án còn vi phạm về thẩm quyền trưng cầu giám định, do chưa nghiên cứu kỹ quy định tại các Điều 34, 36, 38, 39 và 311 của Bộ luật tố tụng hình sự. Một số Tòa án do sơ suất nên chấp nhận cả đơn kháng cáo quá hạn mà không nêu lý do. Một số Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về lấy lời khai, không cho bị cáo và người bị hại đối chất để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, vi phạm các quy định về thành phần Hội đồng xét xử hoặc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình nghị án...
- Trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự: Số lượng các vụ án dân sự để quá thời hạn giải quyết còn nhiều; còn có những bản án tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự. Việc đánh giá chứng cứ trong một số trường hợp thiếu khách quan, toàn diện. Xác định không đúng quan hệ pháp luật có tranh chấp. Đánh giá không đúng mức độ lỗi của các bên trong quá trình giải quyết các tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Quyết định giải quyết hợp đồng vô hiệu không đúng quy định của pháp luật. Có Tòa án chưa xem xét đầy đủ yêu cầu của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, dẫn tới giải quyết không đủ hoặc vượt quá yêu cầu của đương sự. Sai sót trong việc xử lý tài sản đảm bảo đối với khoản vay của hợp đồng tín dụng trong trường hợp tài sản đảm bảo là tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản của hộ gia đình. Sai sót trong việc tính lãi xuất đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng. Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự không đúng với nội dung các đương sự đã thỏa thuận.
Không đưa đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng hoặc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án. Vi phạm về xem xét điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, có Thẩm phán cho rằng cây lâu năm, giếng nước, sân gạch, nhà tạm chỉ là những tài sản có giá trị nhỏ (so với giá trị quyền sử dụng đất), nên đã bỏ qua không xem xét trong quá trình giải quyết vụ án. Sai sót trong việc trưng cầu giám định khi giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng. Một số Tòa án cònsai sót trong việc chưa thực hiện đầy đủ, đúng quy định việc xác minh, thu thập chứng cứ để tìm địa chỉ của bị đơn đã mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn.
- Trong công tác xét xử các vụ án hành chính: Tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính chưa đạt chỉ tiêu xét xử đã đề ra. Mặc dù tỷ lệ các bản án, quyết định về hành chính bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán giảm hơn nhiều so với các năm trước, nhưng vẫn còn cao so với án hình sự và dân sự. Một số vụ án chưa đảm bảo đường lối xét xử. Áp dụng căn cứ pháp luật không phù hợp với tình tiết của vụ án hoặc không thống nhất. Có trường hợp cùng một Tòa án thụ lý 02 vụ án giống nhau cả về đối tượng khởi kiện, thủ tục tố tụng và nội dung vụ án, nhưng khi xét xử thì có vụ Tòa án bác yêu cầu khởi kiện, vụ khác lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện và hủy quyết định hành chính.
Ngoài ra còn có một số sai sót trong xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về hướng dẫn người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, nên trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định của pháp luật. Xác định sai thẩm quyền, sai tư cách người tham gia tố tụng. Tuyên án vượt quá thẩm quyền của Tòa án. Chưa phân định rõ việc “đối thoại” trong tố tụng hành chính với “hòa giải” trong tố tụng dân sự.
Tóm lại, mặc dù còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tuy nhiên có thể thấy rằng, do chủ động nắm bắt tình hình và đề ra nhiều biện pháp hữu hiệu, đồng thời tổ chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt trong toàn ngành, như việc tăng cường cán bộ, Thẩm phán cho các đơn vị còn thiếu so với yêu cầu công tác; chú trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và kỷ luật công vụ cho cán bộ, công chức; tăng cường công tác kiểm tra; phát động các phong trào thi đua gắn với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn; yêu cầu thường xuyên rà soát, nắm bắt, có kế hoạch khắc phục ngay và xác định trách nhiệm, xử lý nghiêm đối với những trường hợp để vụ án quá thời hạn xét xử, cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật hoặc tuyên các bản án không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự…, nên công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong thời gian qua tiếp tục có sự chuyển biến tích cực. Hầu hết các vụ án đều được giải quyết, xét xử trong thời hạn luật định; tỷ lệ giải quyết các vụ án hình sự, dân sự đều đạt và vượt chỉ tiêu xét xử đã đề ra. Mặc dù tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính mới đạt 77%, nhưng đó cũng là nỗ lực rất lớn của các Tòa án, vì năm 2012 số lượng các vụ án hành chính tăng tới 166%. Việc tự kiểm tra, báo cáo tình hình áp dụng chế định án treo; việc để các vụ án quá thời hạn xét xử; rà soát và phối hợp với Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án để có biện pháp xử lý ngay đối với các trường hợp án tuyên không rõ ràng đã trở thành nề nếp trong toàn ngành nên đã góp phần hạn chế các sai sót trong những lĩnh vực này. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên toà tiếp tục được triển khai thực hiện trong tất cả các phiên tòa xét xử các loại vụ án. Quá trình giải quyết các vụ án, Tòa án đã đảm bảo cho mọi công dân thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật quy định, như đảm bảo sự có mặt tại phiên tòa, quyền cung cấp chứng cứ, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền tranh luận tại phiên tòa... Do đó, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục được đảm bảo và có những tiến bộ nhất định, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa đều giảm hơn so với cùng kỳ năm trước. Việc xét xử các vụ án hình sự về cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; việc giải quyết các vụ việc dân sự và vụ án hành chính đã bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Với những kết quả đạt được, công tác xét xử của ngành Toà án nhân dân trong năm qua đã góp phần có hiệu quả trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2. Công tác giám đốc kiểm tra và giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
2.1. Kết quả đạt được
Năm 2012, số đơn đề nghị xem xét lại các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa có chiều hướng giảm và vẫn còn rất lớn. Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý mới 6.122 đơn/vụ đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm (tăng hơn cùng kỳ năm trước 1.732 đơn/vụ), cùng với 4.419 đơn/vụ còn lại của năm trước chuyển sang thì tổng số đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mà các Tòa án này phải giải quyết là 10.541 đơn/vụ. Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết được 6.078 đơn/vụ (bằng 58%), tăng hơn cùng kỳ năm trước 933 đơn/vụ (Tòa án nhân dân tối cao giải quyết 4.325/8.686 đơn/vụ, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết 1.753/1.855 đơn/vụ). Trong đó, trả lời đơn cho các đương sự là không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 5.330 vụ, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 748 vụ. Trong quá trình giải quyết, các Tòa án đã chú trọng làm tốt công tác rà soát, phân loại để tập trung xem xét, giải quyết các đơn sắp hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; phối hợp với Viện kiểm sát để giải quyết dứt điểm các đơn bức xúc, kéo dài. Do đó, số đơn còn lại là 4.463 đơn/vụ đều còn trong thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và đang được tiếp tục xem xét, giải quyết theo quy định.
Công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án nhân dân tiếp tục được tổ chức thực hiện theo hướng tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết; đồng thời không để quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật. Các Toà án đã chú trọng làm tốt công tác tiếp công dân, gắn việc tiếp dân với việc xem xét, giải quyết các vụ việc của công dân theo đúng quy định của pháp luật; nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp và các kiến nghị của cử tri, Đại biểu Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức để triển khai thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng tổ chức sơ kết việc thực hiện Quy định số 200/QĐPH/VKSTC-TATC-BCA-BTP-BQP ngày 26/01/2010 về việc phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, nhằm đánh giá kết quả công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trung ương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp thời gian qua và tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới; đồng thời chỉ đạo các bộ phận chức năng đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đề án cơ chế giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao. Với quan điểm chỉ đạo cần kiên quyết phát hiện và khắc phục những sai lầm nghiêm trọng ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà nước, tập thể và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 340/TANDTC-BTK ngày 25/11/2011, quy định về trách nhiệm của các Tòa án trong việc phát hiện, kiến nghị xem xét bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Công tác giám đốc kiểm tra của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dưới cũng được duy trì thường xuyên và nghiêm túc. Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức 05 đoàn công tác tiến hành kiểm tra 587 hồ sơ vụ án và 2.376 hồ sơ thi hành án hình sự tại các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện của thành phố Hải Phòng và các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thanh Hóa; các Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng thường xuyên duy trì công tác giám đốc việc xét xử đối với các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý. Ngoài ra, ngành Tòa án nhân dân còn duy trì chế độ tự kiểm tra và báo cáo định kỳ đối với các đơn vị trong toàn ngành về các nội dung như: án tuyên không rõ ràng, phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật. Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong khắc phục việc để các vụ án hạn xét xử trong năm 2013 và các năm tiếp theo, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã yêu cầu các Tòa án tự kiểm tra, rà soát các vụ án quá hạn luật định tại địa phương, đơn vị mình để lên kế hoạch giải quyết dứt điểm; chỉ đạo Ban thanh tra thuộc Tòa án nhân dân tối cao kiểm tra tình hình này tại một số Tòa án địa phương; đồng thời vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị toàn ngành về đánh giá thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục tình trạng để các vụ án quá thời hạn xét xử. Hội nghị này được đánh giá là có ý nghĩa rất thiết thực, qua đó tạo quyết tâm trong toàn ngành để khắc phục hạn chế, thiếu sót này.
Thông qua công tác giám đốc kiểm tra và giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, các sai sót về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án được phát hiện và khắc phục kịp thời; các khó khăn, bất cập được tổng hợp để xem xét, tìm biện pháp tháo gỡ; các vướng mắc trong thực tiễn xét xử được tập trung nghiên cứu, tổng kết, từng bước xây dựng và ban hành các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán và thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn ngành.
2.2. Hạn chế, thiếu sót
Mặc dù còn trong thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật, nhưng số đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được xem xét, giải quyết tại Tòa án nhân dân tối cao còn khá lớn (4.361 đơn/vụ).
Vẫn còn để xảy ra một số trường hợp đã có văn bản trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng sau đó người có thẩm quyền lại kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc gửi quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho các cá nhân và cơ quan có liên quan trong một số trường hợp còn chậm. Một số ít trường hợp do thiếu kiểm tra thông tin với địa phương nên đề xuất với người có thẩm quyền kháng nghị đối với cả các bản án mà đương sự đã tự nguyện thi hành án.
Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao đối với các Tòa án địa phương cũng chưa thực sự đi vào chiều sâu, nên chưa kịp thời phát hiện, tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao rút kinh nghiệm hoặc có biện pháp chấn chỉnh ngay đối với các sai sót về nghiệp vụ trong toàn ngành.
3. Công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
3.1. Kết quả đạt được
Về công tác xây dựng pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng, trình và được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh chi phí giám định, định giá, chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng (Pháp lệnh này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013); đồng thời tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng nhiều văn bản luật, pháp lệnh do các cơ quan khác chủ trì soạn thảo.
Ngành Tòa án nhân dân cũng đã và đang triển khai tổng kết 10 năm thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 để xây dựng dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) trình Quốc hội xem xét, thông qua sau khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tổng kết thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Phá sản năm 2004 và phối hợp triển khai hoạt động khảo sát về “Thực trạng thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999”.
Về công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu các quy định mới của pháp luật và kết quả tổng kết kinh nghiệm xét xử của Tòa án các cấp, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án (trong tháng 11/2012 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn thông qua 04 Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự). Tòa án nhân dân tối cao cũng đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và banhành 02 Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân và hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính; tham gia xây dựng nhiều thông tư liên tịch liên quan tới tổ chức và hoạt động của Tòa án do các cơ quan khác chủ trì soạn thảo.
Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang chỉ đạo tiếp tục xây dựng các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất một số quy định của Bộ luật hàng hải, Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu biển, Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu bay; chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng một số thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống mua bán người và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao còn ban hành nhiều công văn trao đổi nghiệp vụ với các Tòa án địa phương về áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án cụ thể.
3.2. Hạn chế, thiếu sót
Công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử còn bất cập, hạn chế; một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử chậm được hướng dẫn.
Công tác trao đổi nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao với các Tòa án địa phương trong một số trường hợp chưa kịp thời.
4. Công tác thi hành án hình sự và miễn giảm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước
4.1. Kết quả đạt được
Về công tác thi hành án hình sự, các Tòa án cấp sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án hình sự đối với 112.673 người bị kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đạt tỷ lệ 99%; ra quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 56.535 phạm nhân do cải tạo tốt. Về cơ bản, việc ra các quyết định thi hành án hình sự đảm bảo kịp thời, không để quá hạn luật định; việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đều đảm bảo có căn cứ theo quy định của pháp luật. Các Toà án cũng đã thường xuyên phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Công an rà soát danh sách những người đã có quyết định thi hành án phạt tù hiện còn tại ngoại chưa bị bắt thi hành án để đôn đốc bắt thi hành án; phối hợp tốt với chính quyền địa phương trong việc quản lý các đối tượng thi hành án treo, cải tạo không giam giữ ở địa phương.
Việc ra quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị và trình Chủ tịch nước xem xét đơn xin ân giảm hình phạt tử hình đã được Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về công tác miễn, giảm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã xét miễn, giảm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước đối với 7.219 trường hợp với tổng số tiền được miễn, giảm là trên 18 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết, các Tòa án đã có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát cùng cấp trong việc kiểm tra các điều kiện đối với các trường hợp được đề nghị miễn, giảm; đồng thời xem xét kỹ các tài liệu, hồ sơ có liên quan, cân nhắc thận trọng, đảm bảo việc xét miễn, giảm vừa tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về các điều kiện của người phải thi hành án nhưng được đề nghị miễn hoặc giảm phần nghĩa vụ phải thực hiện và cũng tính đến việc đảm bảo sự nghiêm minh của quyết định đối với những khoản thu nộp ngân sách mà Tòa án đã tuyên.
4.2. Hạn chế, thiếu sót
Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án trong một số trường hợp chưa đảm bảo căn cứ theo quy định của pháp luật; một số Tòa án chưa làm tốt việc theo dõi các trường hợp được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù để tiếp tục quyết định thi hành án khi căn cứ hoãn, tạm đình chỉ đã hết.
II. VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG NGÀNH
1. Về công tác tổ chức cán bộ
1.1. Kết quả đạt được
Trên cơ sở các Kế hoạch, Hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương, ngành Tòa án nhân dân đã triển khai thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Cho tới nay, Ban cán sự Đảng, Đảng ủy cơ quan Tòa án nhân dân tối cao, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao và nhiều Tòa án địa phương đã tiến hành xong việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Thông qua đợt sinh hoạt chính trị này đã góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm trong cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là các cán bộ chủ chốt; làm rõ những hạn chế, thiếu sót trong công tác tổ chức cán bộ; đánh giá và xác định rõ vai trò của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Đồng thời trong năm qua, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao cũng đã tăng cường sự phối hợp với cấp ủy các địa phương để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác xây dựng ngành.
Căn cứ vào Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực của ngành Tòa án nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong thời gian tới. Đồng thời, để tăng cường năng lực cho các Tòa án, với chức năng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp và có vị trí là trung tâm của hoạt động tư pháp, theo sự phân công của Bộ Chính trị, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai xây dựng Đề án về tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ cho ngành Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới. Cho tới nay, Đề án này đã được Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương cho ý kiến và đang được tiếp tục hoàn thiện để trình Bộ Chính trị.
Để bổ sung số lượng cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa án đáp ứng yêu cầu công tác xét xử trong bối cảnh các loại vụ án có chiều hướng gia tăng và đặc biệt là đáp ứng yêu cầu mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong công tác xét xử các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Đề án bổ sung biên chế cán bộ, Thẩm phán cho ngành Tòa án nhân dân, theo đó biên chế của ngành Tòa án nhân dân được bổ sung thêm 1.713 người, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng kế hoạch phân bổ và hướng dẫn các Tòa án địa phương thực hiện.
Tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, trong năm qua Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã trình Chủ tịch nước bổ nhiệm mới 12 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã bổ nhiệm mới 187 Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân địa phương và 229 Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Cho tới nay, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh đều đã có Chánh án và nhiều Tòa án đã có 02 Phó Chánh án; các Tòa án nhân dân cấp huyện về cơ bản đều có Chánh án, số ít chưa có Chánh án thì đều đã giao Quyền Chánh án hoặc phụ trách đơn vị để điều hành hoạt động của đơn vị và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật tố tụng quy định. Năm 2012, Tòa án các cấp đã tuyển dụng mới 510 cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức được thực hiện công khai, nghiêm túc theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn của ngành, các cán bộ được tuyển dụng đều đảm bảo có đủ các tiêu chuẩn theo ngạch tuyển dụng.
Căn cứ vào yêu cầu công tác và chủ trương chuyển đổi vị trí công tác, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định điều động, biệt phái 20 lượt Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án để hỗ trợ công tác giữa các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; đồng thời theo phân cấp của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã chủ động biệt phái, điều động 150 lượt cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện để tăng cường công tác xét xử cho các đơn vị hiện còn thiếu cán bộ, Thẩm phán so với yêu cầu công tác.
Hội thẩm nhân dân toàn ngành hiện có 15.906 người (1.790 Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 14.116 Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện). Các Hội thẩm đều là những người có trình độ hiểu biết pháp luật và có điều kiện để tham gia công tác xét xử, nên quá trình hoạt động đã có nhiều đóng góp tích cực cho công tác xét xử của các Tòa án địa phương. Tòa án địa phương đều tạo điều kiện duy trì hoạt động của các Đoàn Hội thẩm nhân dân; đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ, tiêu chuẩn của Nhà nước đối với Hội thẩm và cho đến nay, tất cả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đều đã tổ chức tập huấn về nghiệp vụ cho các Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 2011 - 2016 tại địa phương mình theo một nội dung chương trình thống nhất của Tòa án nhân dân tối cao.
Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức Tòa án, nhất là các cán bộ có chức danh tư pháp được quan tâm và thực hiện thường xuyên. Đối với các trường hợp có dấu hiệu vi phạm thì đều được khẩn trương xem xét, kết luận để có biện pháp xử lý kịp thời. Việc xử lý các cán bộ có hành vi vi phạm trong thời gian qua được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung trong toàn ngành. Hầu hết các trường hợp sau khi có quyết định xử lý đều chấp hành, không có khiếu nại.
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ đã kịp thời đề ra nhiều biện pháp tăng cường công tác quản lý nghiệp vụ, quản lý cán bộ để phòng ngừa các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức trong toàn ngành, gắn với việc tiếp tục thực hiện “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào thi đua “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”. Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc thành lập Vụ Thi đua - Khen thưởng tại Tòa án nhân dân tối cao, ngoài việc tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về công tác thi đua khen thưởng, đơn vị này còn giúp lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng đối với cán bộ, công chức trong toàn ngành.
1.2. Hạn chế, thiếu sót
Việc phân bổ biên chế đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê duyệt cho các đơn vị trong toàn ngành tiến hành còn chậm; tình trạng thiếu cán bộ, Thẩm phán ở các Tòa án khu vực phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc chưa được khắc phục. Việc hướng dẫn đối với những vướng mắc liên quan tới công tác tổ chức cán bộ thực hiện chưa kịp thời.
Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập, hạn chế về một số lĩnh vực, như: kiến thức xã hội, kỹ năng về công tác dân vận, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế...
Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao. Một số cán bộ, công chức trong đó có cả Thẩm phán còn vi phạm phẩm chất đạo đức, vi phạm kỷ luật công vụ bị xử lý kỷ luật hoặc cá biệt có trường hợp vi phạm pháp luật đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã xử lý kỷ luật 36 trường hợp do có hành vi vi phạm và chuyển cơ quan chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 10 trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
2. Về công tác quản lý kinh phí và cơ sở vật chất
2.1. Kết quả đạt được
Năm 2012, ngành Tòa án được Nhà nước giao tổng dự toán kinh phí là 2.146 tỷ đồng (chi thường xuyên 1.656 tỷ đồng và chi đầu tư xây dựng cơ bản 490 tỷ đồng). Trên cơ sở thông báo kinh phí được cấp, Tòa án nhân dân tối cao đã khẩn trương xây dựng dự toán phân bổ kinh phí cho các đơn vị trong toàn ngành để trình Bộ Tài chính thẩm định. Sau khi có kết quả thẩm định của Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành phân bổ kinh phí cho các đơn vị để phục vụ các yêu cầu nhiệm vụ công tác. Việc phân bổ kinh phí được tiến hành kịp thời, đúng định mức, đảm bảo minh bạch, rõ ràng và được thông báo công khai trong toàn ngành. Nhìn chung tổng kinh phí chi thường xuyên về cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác xét xử và các hoạt động của Tòa án.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, trên tinh thần quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, trong năm qua Tòa án nhân dân tối cao chỉ tập trung kinh phí để thanh quyết toán cho các công trình đã hoàn thành và cấp cho các công trình chuyển tiếp (đã khởi công xây dựng hoặc đang được cải tạo, mở rộng) để sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng. Cụ thể, đã ưu tiên vốn để thanh toán cho 24 dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, 11 dự án dự kiến hoàn thành trong năm 2012 và 33 dự án chuyển tiếp. Các công trình đầu tư và đưa vào sử dụng đều đảm bảo chất lượng, quy mô và công năng sử dụng, đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các Tòa án hiện nay và có tính tới việc đổi mới mô hình tổ chức Tòa án theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Về tăng cường điều kiện, phương tiện làm việc, tiếp tục thực hiện Đề án trang bị phương tiện làm việc cho ngành Tòa án nhân dân giai đoạn 2008- 2013 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, năm 2012 Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục đầu tư 70 tỷ đồng để trang bị bàn ghế hội trường xét xử, thiết bị tăng âm, máy chiếu, giá lưu trữ hồ sơ và một số thiết bị thiết yếu khác cho các Tòa án để phục vụ yêu cầu công tác.
Trong năm qua, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành kiểm tra quyết toán kinh phí năm 2011 của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước trong toàn ngành. Qua kiểm tra cho thấy, nhìn chung các đơn vị đều sử dụng kinh phí đúng mục đích; chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm, tập trung chủ yếu cho các hoạt động nghiệp vụ; không để xảy ra tiêu cực, lãng phí trong quản lý và chi tiêu ngân sách.
2.2. Hạn chế, thiếu sót
Một số đơn vị khi sử dụng kinh phí không tự chủ theo một số nội dung như xét xử lưu động, tập huấn cho Hội thẩm nhân dân..., do không chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện ngay từ đầu năm, nên đến hết năm không thực hiện được dẫn đến thừa tiền phải trả lại ngân sách.
Một số công trình đầu tư xây dựng trụ sở thuộc nhóm C (Tòa án nhân dân cấp tỉnh làm chủ đầu tư theo phân cấp) đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng không kịp thời quyết toán theo quy định.
3. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ
3.1. Kết quả đạt được
Tiếp theo việc cử 560 cán bộ Tòa án địa phương theo học lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp (Bộ tư pháp), Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục triển khai xây dựng Kế hoạch đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, Thẩm phán của ngành giai đoạn 2012 - 2013 để trao đổi, thống nhất với Học viện tư pháp chuẩn bị cho việc mở khóa đào tạo tiếp theo.
Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong toàn ngành ngày càng được chú trọng và thực hiện thường xuyên. Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức 56 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho trên 7.000 lượt học viên là Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án, trong đó tập trung chủ yếu vào việc tập huấn nghiệp vụ về tố tụng hành chính và tố tụng dân sự theo quy định mới của Luật tố tụng hành chính và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao còn tổ chức 08 lớp đào tạo về tin học, ngoại ngữ và tập huấn nghiệp vụ về công tác tổ chức cán bộ và công tác tài chính cho các cán bộ trong ngành. Đồng thời trong năm qua, tất cả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đều đã tổ chức tập huấn về nghiệp vụ công tác xét xử cho các Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 2011 - 2016 tại địa phương mình theo một nội dung chương trình thống nhất của Tòa án nhân dân tối cao.
Các Toà án quân sự đã chủ động lập kế hoạch, biên soạn nội dung và phối hợp với các đơn vị, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả, chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nội dung tuyên truyền tập trung vào: Luật giao thông đường bộ; Luật khiếu nại, tố cáo; Luật hình sự; Luật phòng, chống ma túy; Luật phòng, chống tham nhũng. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật trong cán bộ, chiến sỹ; ngăn ngừa vi phạm và tội phạm, tăng cường kỷ luật quân đội. Toà án quân sự trung ương đã và đang biên soạn chuyên đề tuyên truyền giáo dục pháp luật về Luật khiếu nại, Luật tố cáo theo yêu cầu của Hội đồng phối hợp, phổ biến giáo dục pháp luật Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị.
Thực hiện yêu cầu của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Báo cáo về chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Tòa án nhân dân đến năm 2015 và đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt hơn công tác đào tạo của ngành trong thời gian tới, trong đó có kiến nghị giao Tòa án nhân dân tối caothực hiện chức năng đào tạo đối với cán bộ, công chức trong ngành và mới đây Bộ Chính trị đã có kết luận chấp nhận kiến nghị này của ngành Tòa án nhân dân.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, thời gian qua lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra chủ trương phải nâng cao năng lực và quy mô của Trường cán bộ Tòa án, trong đó tập trung vào việc củng cố đội ngũ giảng viên của Trường và đầu tư cơ sở vật chất các trang thiết bị phục vụ hoạt động cho Trường cán bộ Tòa án. Cho tới nay, Hội đồng nhà trường và các bộ phận chức năng đã được củng cố một bước; Tòa án nhân dân tối cao cũng đã xây dựng Quy chế giảng viên nhằm thu hút những Thẩm phán có kinh nghiệm để biệt phái về giảng dạy tại Trường trong một thời hạn nhất định; triển khai nghiên cứu đổi mới về giáo trình, tài liệu cũng như phương pháp giảng dạy để đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện nay. Về điều kiện cơ sở vật chất, được sự tài trợ của Chính phủ Hàn Quốc, trụ sở Trường cán bộ Tòa án đã được triển khai xây dựng trên diện tích 5ha và cho đến nay đã hoàn thành dự án giai đoạn 1 với hệ thống giảng đường và nơi ăn nghỉ khang trang, hiện đại có thể phục vụ cho khoảng trên 200 học viên. Trong thời gian tới, khi toàn bộ dự án đầu tư hoàn thành sẽ tạo ra một điều kiện cơ sở vật chất rất thuận lợi cho hoạt động đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức của ngành.
3.2. Hạn chế, thiếu sót
Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức Tòa án trong năm qua chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình hiện nay, chưa chuyên sâu vào những chuyên đề mà thực tiễn công tác xét xử đang vướng mắc; việc triển khai thực hiện Đề án về đào tạo, bồi dưỡng tổng thể mang tính chiến lược tiến hành còn chậm; chưa làm tốt việc đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý đối với lãnh đạo các đơn vị trong ngành. Giáo trình, tài liệu tập huấn còn chậm được đổi mới, trong một số trường hợp không thống nhất.
III. VIỆC TRIỂN KHAI CÁC NHIỆM VỤ CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ TỔNG KẾT THI HÀNH HIẾN PHÁP NĂM 1992
1. Về triển khai các nhiệm vụ liên quan tới cải cách tư pháp
Trên cơ sở Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn các Tòa án địa phương xây dựng Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực ở địa phương mình, trong đó hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí thành lập, mô hình cơ cấu tổ chức, quy mô trụ sở làm việc... để các Tòa án địa phương dự kiến số lượng các Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, cũng như địa điểm đặt trụ sở cho các Tòa án này. Trong quá trình triển khai thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao đã phân công trách nhiệm trong ban lãnh đạo để khảo sát, nắm bắt tình hình tại các địa phương.
Trên cơ sở báo cáo của các Tòa án địa phương và kết quả khảo sát, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng báo cáo Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương về việc triển khai thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực theo Kết luận số 79-KL/TW, trong đó nêu rõ những kết quả đã đạt được, những khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp, kiến nghị để tiếp tục triển khai thực hiện. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; tính ưu việt, hạn chế; những thuận lợi, khó khăn và hướng khắc phục khó khăn, hạn chế khi thực hiện chủ trương thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực để báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
Ngoài ra, căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và sự phân công của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao đang triển khai hoàn thiện và nghiên cứu, xây dựng một số đề án quan trọng khác như: Đề án về tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ của ngành Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới; Đề án cải cách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân; Đề án quy hoạch tổng thể về trụ sở ngành Tòa án nhân dân; Đề án mở rộng nguồn, cải cách quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và tăng thời hạn bổ nhiệm Thẩm phán; Đề án cơ chế giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao; Đề án về cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án; Đề án về đổi mới mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân... Tuy nhiên trong thời gian qua, việc triển khai xây dựng một số đề án về cải cách tư pháp tiến hành còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
2. Về tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992
Thực hiện Kế hoạch số 05/KH-UBDTSĐHP ngày 23/8/2011 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đã thành lập Ban chỉ đạo tổng kết Hiến pháp của ngành Tòa án nhân dân; ban hành kế hoạch, đề cương hướng dẫn tổng kết và tổ chức triển khai thực hiện trong toàn ngành. Trên cơ sở báo cáo của các Tòa án địa phương và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Ban chỉ đạo tổng kết Hiến pháp của ngành đã xây dựng Dự thảo báo cáo tổng kết việc thi hành các quy định của Hiến pháp năm 1992 có liên quan tới tổ chức và hoạt động của Tòa án; đồng thời tổ chức hội thảo để lấy ý kiến trong toàn ngành, trên cơ sở đó hoàn thiện báo cáo để gửi Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trong đó đã đề xuất nhiều nội dung quan trọng cho việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Căn cứ vào Kết luận số 20-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tòa án nhân dân tối cao đang tích cực tham gia vào việc đề xuất sửa đổi các quy định cụ thể trong Hiến pháp, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới vị trí, chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân.
IV. MỘT SỐ CÔNG TÁC KHÁC
1. Công tác đối ngoại
Hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của ngành Tòa án nhân dân trong năm qua tiếp tục được tăng cường, góp phần mở rộng quan hệ hợp tác của ngành Tòa án nhân dân Việt Nam với Tòa án các nước trên thế giới và trong khu vực. Tòa án
nhân dân tối cao đã tổ chức nhiều đoàn công tác cấp cao thăm, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài, đồng thời tổ chức đón tiếp các đoàn đại biểu các cơ quan tư pháp của nhiều nước sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã cử 31 lượt cán bộ Tòa án các cấp đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Các thỏa thuận hợp tác mà Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam đã ký kết với các nước, đặc biệt là Canađa, Hàn Quốc và các nước bạn Lào và Campuchia và các dự án hỗ trợ kỹ thuật với các tổ chức quốc tế tiếp tục được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần đáng kể vào việc tăng cường mối quan hệ hợp tác với các nước, cũng như nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức và hỗ trợ kinh nghiệm cũng như các điều kiện vật chất phục vụ tốt hơn việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành.
Đặc biệt năm 2012 là năm kỷ niệm 50 năm ngày xác lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, cùng với các hoạt động kỷ niêm của Nhà nước, ngành Tòa án nhân dân cũng đã triển khai nhiều hoạt động kỷ niệm sự kiện này, nhằm đánh dấu mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước nói chung và ngành Tòa án nhân dân hai nước nói riêng. Trong đó phải kể đến việc hoàn thành bộ Phim tài liệu “Tình sâu hơn nước Hồng Hà Cửu Long”, nói về quan hệ hợp tác giữa ngành Tòa án hai nước và tổ chức đón Đoàn đại biểu ngành Tòa án Lào, do Đồng chí Khamphan Sithidampha, Ủy viên trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào, Chánh án Tòa án tối cao Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào làm Trưởng đoàn sang thăm và trao các Huân chương cao quý của Nhà nước Lào cho một số cá nhân và tập thể của Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
2. Công tác thống kê - tổng hợp và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các Tòa án
Công tác thống kê - tổng hợp của toàn ngành tiếp tục đi vào nề nếp, giúp lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp nắm bắt kịp thời và tương đối chính xác tình hình công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác của ngành, phục vụ tốt các báo cáo của ngành trước Quốc hội và các cơ quan Đảng, Nhà nước, cũng như các báo cáo của Tòa án địa phương trước Hội đồng nhân dân. Với việc triển khai ứng dụng “Phần mềm thống kê các loại vụ án” trong toàn ngành đã giúp cho việc báo cáo số liệu nhanh chóng, kịp thời; đảm bảo tính chính xác của số liệu, tiết kiệm được nguồn lực và tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc trao đổi, chia sẻ thông tin với các cơ quan có liên quan.
Triển khai thực hiện Đề án “Tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Tòa án nhân dân giai đoạn 2011-2015”, trong năm qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều hoạt động của ngành Toà án nhân dân nói chung và công tác giải quyết, xét xử các vụ án nói riêng đã từng bước được ứng dụng công nghệ thông tin. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã triển khai xây dựng một số đề án về ứng dụng công nghệ thông tin, như “Phần mềm thống kê các loại vụ án”, “Phần mềm quản lý các loại vụ án”, nâng cấp “Phần mềm quản lý cán bộ”, xây dựng hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến của ngành; đồng thời hỗ trợ một số địa phương xây dựng Trang thông tin điện tử và phát triển hệ thống mạng LAN... Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng trang thiết bị công nghệ thông tin của ngành Tòa án nhân dân hiện nay còn rất lạc hậu; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của Tòa án còn chậm so với các Bộ, Ngành khác; trình độ tin học của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp còn nhiều bất cập.
3. Về công tác Văn phòng
Văn phòng Tòa án các cấp đã làm tốt công tác phục vụ các hoạt động chung của từng đơn vị nói riêng và toàn ngành nói chung, đặc biệt là phục vụ các hoạt động nghiệp vụ, cũng như các sự kiện lớn của ngành diễn ra ở trung ương cũng như tại các địa phương; tham mưu cho lãnh đạo Tòa án các cấp thực hiện tốt công tác kế toán, quản trị, văn thư lưu trữ và thi đua khen thưởng của cơ quan, đơn vị.
4. Công tác thông tin, tuyên truyền
Năm 2012, Báo Công lý, Tạp chí Tòa án nhân dân và Cổng thông tin điện tử của ngành Tòa án nhân dân tiếp tục tập trung thông tin tuyên truyền về các hoạt động của ngành với nhiều bài viết và hình ảnh phong phú. Nội dung thông tin đều đảm bảo bám sát tôn chỉ, mục đích, định hướng tuyên truyền của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và có tính thời sự; các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới tổ chức và hoạt động của ngành cũng như các văn bản chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao được cập nhật thường xuyên. Nhiều chuyên mục mới với những nội dung thiết thực cũng đã được hình thành, thông qua đó thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về pháp luật và hoạt động của các Tòa án.
5. Các hoạt động xã hội, thể thao, văn hóa
Các hoạt động xã hội, thể thao, văn hóa của toàn ngành cũng được duy trì thường xuyên. Cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân đã tích cực hưởng ứng và tham gia các phong trµo ®Òn ¬n ®¸p nghÜa, ñng hé ®ång bµo bÞ thiªn tai, giúp đỡ trẻ em nghèo vượt khó...; quyên góp tiền ủng hộ các quỹ Vì người nghèo, Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ tình nghĩa của ngành Tòa án nhân dân…Các đơn vị trong toàn ngành cũng thường xuyên duy trì các phong trào thể thao với nhiều hình thức phong phú, phù hợp; Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức thành công các Hội thao ngành Tòa án nhân dân năm 2012 tại khu vực phía Nam và phía Bắc, qua đó tạo điều kiện giao lưu thể thao giữa các đơn vị, nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho cán bộ, công chức, đồng thời động viên cán bộ, công chức tích cực rèn luyện thể chất để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kết thúc cuộc vận động “Sáng tác ca khúc về ngành Tòa án nhân dân” đã lựa chọn được ca khúc “Hành khúc ngành Tòa án nhân dân” - Nhạc và lời Hoàng Kỳ làm bài ca chính thức của ngành và phổ biến tới cán bộ, công chức trong toàn ngành để triển khai luyện tập Ca khúc.
6. Về công tác thi đua khen thưởng
Các phòng trào thi đua của ngành trong năm qua đều gắn liền với việc thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, theo chủ đề xuyên suốt của ngành là “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”, với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” và cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân”, nhằm mục đích hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị của ngành, mà trọng tâm là nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án. Bên cạnh đó, trên cơ sở hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nhiều Tòa án địa phương cũng đã chủ động phát động các phong trào thi đua gắn với thực tế yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị mình. Việc tổng kết công tác thi đua năm 2012 đã có sự đổi mới theo hướng kết hợp với việc rút kinh nghiệm công tác trong năm của các Tòa án thuộc mỗi cụm thi đua, qua đó có sự trao đổi, rút kinh nghiệm của các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao đối với các Tòa án địa phương, đồng thời tiếp thu các ý kiến phản ánh, kiến nghị của Tòa án nhân dân địa phương với Tòa án nhân dân tối cao nhằm tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động cho các Tòa án.
Qua kết quả bình xét thi đua khen thưởng năm 2012, có 95 tập thể được đề nghị tặng Cờ Thi đua của ngành Tòa án nhân dân, trong đó có 19 tập thể được đề nghị tặng Cờ Thi đua của Chính phủ; 276 cá nhân được tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua ngành Tòa án nhân dân; 510 tập thể đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc…
(Xem báo cáo cụ thể của Hội đồng Thi đua Khen thưởng ngành Tòa án nhân dân)
V. NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC CÁC KHUYẾT ĐIỂM, THIẾU SÓT CHỦ YẾU
Trong năm qua, nhìn chung hoạt động của các Tòa án đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, ở mỗi mặt công tác cũng còn có một số khuyết điểm, thiếu sót nhất định. Trong đó, các khuyết điểm, thiếu sót chủ yếu là: tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán chưa giảm mạnh; chưa khắc phục triệt để việc để các vụ án quá thời hạn xét xử; mặc dù còn trong thời hạn giải quyết nhưng số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được xem xét, giải quyết còn nhiều; công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công tác xét xử; chưa khắc phục triệt để tình trạng thiếu cán bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương, nhất là các Tòa án khu vực phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc; tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn yếu, một số trường hợp tiêu cực, sa sút phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật, thậm chí có trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên nhân và các giải pháp khắc phục các khuyết điểm, thiếu sót chủ yếu này cụ thể như sau:
1. Về việc các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán
Nguyên nhân là do một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp; một số trường hợp việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa kỹ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, áp dụng pháp luật chưa chính xác… Trong công tác xét xử các vụ án hành chính, phần lớn các Thẩm phán còn hạn chế về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội; còn có Thẩm phán có biểu hiện ngại va chạm đối với cơ quan hoặc người có thẩm quyền đã có quyết định hoặc có hành vi hành chính bị khởi kiện, phần lớn là các trường hợp Thẩm phán Tòa án cấp huyện khi xét xử các vụ án liên quan tới quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại một số Tòa án địa phương thực hiện chưa tốt nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm về các sai sót nghiệp vụ của cán bộ, Thẩm phán.
Để nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án, bên cạnh việc chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán, đặc biệt là phẩm chất dũng cảm, kiên quyết không chịu sức ép của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, bảo đảm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Toà án nhân dân tối cao sẽ quan tâm làm tốt hơn nữa công tác đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong toàn ngành; chú trọng hơn tới công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và rút kinh nghiệm công tác xét xử. Xác định rõ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán và Hội đồng xét xử đối với những sai sót do lỗi chủ quan. Những trường hợp Thẩm phán xét xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán, trường hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm, cách chức hoặc không được bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán. Những Thẩm phán có bản án, quyết định bị huỷ hoặc sửa do sai lầm nghiêm trọng, cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật hoặc có những bản án tuyên không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự..., thì phải bị kiểm điểm, đánh giá về năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm để có biện pháp xử lý phù hợp. Tăng cường công tác giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với các Toà án cấp dưới, kịp thời phát hiện để uốn nắn, rút kinh nghiệm trong toàn ngành về những sai sót trong hoạt động xét xử.
2. Về vấn đề để các vụ án quá thời hạn xét xử
2.1. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan
Một số Tòa án địa phương có số lượng án tăng đột biến, nhiều vụ án rất phức tạp, có đông người tham gia tố tụng và lại cư trú trên nhiều địa bàn khác nhau, trong khi đó số lượng cán bộ, Thẩm phán chưa đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong nhiều vụ án, đương sự không hợp tác với Tòa án, cố tình né tránh, gây khó khăn nhằm kéo dài vụ án để chậm thực hiện nghĩa vụ. Một số đương sự không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án; không cung cấp được địa chỉ mới của bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; không có mặt khi đo đạc, định giá, nhiều trường hợp còn cản trở khi Tòa án tiến hành thẩm định tại chỗ… Sự phối hợp của một số cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp văn bản, tài liệu; tham gia Hội đồng định giá, tham gia thẩm định tại chỗ, thực hiện giám định… thực hiện chưa tốt. Việc thực hiện ủy thác tư pháp ở nước ngoài thường gặp rất nhiều khó khăn và chậm có kết quả.
Đối với Tòa án nhân dân tối cao, việc để một số vụ án quá thời hạn xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là do phần lớn đây là các vụ án phức tạp cần có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị; một số vụ án phải hoãn phiên tòa theo yêu cầu của đại diện Viện kiểm sát hoặc có những tình tiết mới cần phải thẩm định; một số Tòa chuyên trách phải tập trung giải quyết số lượng rất lớn các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, trong khi đó số lượng Thẩm phán còn hạn chế, lãnh đạo đơn vị ngoài công tác chuyên môn nghiệp vụ phải tham gia thực hiện các nhiệm vụ khác theo chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao nên cũng có trường hợp chậm hoàn tất việc nghiên cứu hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử. Hội đồng Thẩm phán, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao ngoài thời gian dành cho công tác xét xử còn phải thực hiện nhiều công việc khác, như nghiên cứu hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ về cải cách tư pháp trong toàn ngành....
Một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn công tác xét xử nhưng chưa có quy định hoặc chậm có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng rất khó khăn.
b. Nguyên nhân chủ quan
Lãnh đạo một số Tòa án địa phương chưa chú trọng theo dõi để nắm chắc tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án ở đơn vị mình, cũng như các đơn vị thuộc quyền quản lý; thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công vụ của cán bộ, Thẩm phán và chưa kịp thời đề ra những biện pháp khắc phục khi phát sinh án quá hạn ở địa phương, đơn vị mình. Tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp còn hạn chế; quá trình giải quyết vụ án thường lựa chọn những vụ đơn giản để giải quyết trước nhằm đạt chỉ tiêu công tác; đối với những vụ án phức tạp thì chưa tích cực, chủ động báo cáo lãnh đạo để tìm biện pháp giải quyết; khi gặp những vụ án mà có đương sự không hợp tác, cố tình gây khó khăn hay những vụ án phải ủy thác tư pháp ra nước ngoài … thì lúng túng, chậm xử lý nên để án quá hạn.
Việc trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ của các Tòa chuyên trách và Viện khoa học xét xử của Tòa án nhân dân tối cao trong một số trường hợp còn chậm, làm ảnh hưởng tới tiến độ giải quyết vụ án của Tòa án địa phương. Công tác tổ chức cán bộ còn hạn chế, chưa kịp thời tham mưu cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao để bổ sung biên chế cho các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải giải quyết; một số Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa chủ động làm tốt công tác điều động, biệt phái cán bộ, Thẩm phán để tăng cường công tác xét xử cho các Tòa án cấp huyện thuộc quyền quản lý.
2.2. Các giải pháp khắc phục
Bổ sung biên chế cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa án, đặc biệt là các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải thụ lý, giải quyết. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần chú trọng và làm tốt công tác điều động, biệt phái cán bộ, Thẩm phán để tăng cường công tác xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện có số lượng lớn các vụ án phải giải quyết.
Trong công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo các đơn vị cần tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức; nắm chắc tình hình, kết quả thực hiện công tác xét xử hàng tháng để có kế hoạch, giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án; tiếp tục đổi mới các thủ tục hành chính tư pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết công việc, đặc biệt trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án; khẩn trương tổ chức rà soát, thống kê chính xác số lượng các vụ án quá hạn luật định để tập trung cán bộ giải quyết dứt điểm các vụ án này; tăng cường các phiên họp của Hội đồng Thẩm phán, cũng như các Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết các vụ án quá hạn tại Tòa án nhân dân tối cao.
Xác định trách nhiệm và có biện pháp xử lý đối với cá nhân Thẩm phán, cũng như Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc để các vụ án quá hạn do nguyên nhân chủ quan.
Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và công tác trao đổi nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao với các Tòa án địa phương để tháo gỡ những vướng mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các loại vụ án.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho các Tòa án khi thực hiện nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết các loại vụ án.
3. Về tiến độ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn chậm
3.1. Nguyên nhân
Các quy định của pháp luật tố tụng liên quan tới việc đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự trong việc đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Do vậy, hầu như vụ án nào đương sự cũng có đơn khiếu nại, thậm chí có trường hợp đã được giải quyết nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại, dẫn tới số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được gửi tới Toà án nhân dân tối cao là rất lớn.
Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao đã chú trọng việc bổ sung biên chế cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ.
Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm và kinh nghiệm thực tiễn của một bộ phận cán bộ chuyên trách làm công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn có những hạn chế nhất định. Một số trường hợp còn chủ quan, chưa thận trọng, tỷ mỷ trong nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như các yêu cầu của công dân nên việc giải quyết chưa đảm bảo chất lượng.
Việc tổng kết thi hành các văn bản chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, nhằm đề ra những giải pháp mang tính đột phá để nâng cao hiệu quả công tác này tiến hành còn chậm.
3.2. Các giải pháp khắc phục
Cần nghiên cứu, sửa đổi các quy định của pháp luật tố tụng theo hướng quy định điều kiện, trách nhiệm, nghĩa vụ của người gửi đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, làm tốt công tác hoà giải trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, nhằm hạn chế nguyên nhân phát sinh khiếu nại đối với các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thực hiện tốt công tác rà soát, phân loại và giải quyết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đối với các vụ việc phức tạp, nổi cộm thì cần có ngay kế hoạch và phân công giải quyết khẩn trương.
Ưu tiên bố trí đủ cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và tinh thần trách nhiệm cao cho các Toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tối cao; kết hợp với việc tăng cường công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức của các đơn vị.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đề án cơ chế giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao; rà soát các quy chế, quy trình thụ lý, phân loại và giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành và kiểm tra công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
4. Về hạn chế của công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
Công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao trong năm qua chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử. Nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ khoa học xét xử còn thiếu và yếu; việc tổng kết thực tiễn công tác xét xử trong toàn ngành còn hạn chế nên chưa kịp thời phát hiện để đề xuất những vướng mắc, làm cơ sở cho việc ban hành các nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Hội đồng Thẩm phán. Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn luôn gắn với việc tổng kết các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn xét xử của Toà án các cấp, nên đòi hỏi phải có thời gian, vật chất nhất định; đồng thời theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Do đó, những trường hợp chậm nhận được ý kiến góp ý từ phía cơ quan, tổ chức hữu quan cũng ảnh hưởng tới tiến độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao.
Để nâng cao hiệu quả công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trong thời gian tới Tòa án nhân dân tối cao sẽ chú trọng làm tốt việc xây dựng các kế hoạch, chương trình dài hạn và ngắn hạn trong lĩnh vực công tác này; củng cố, kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ của Viện khoa học xét xử theo hướng bổ sung các cán bộ có trình độ học vấn và kinh nghiệm thực tiễn cho đơn vị này; tổ chức thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử trong toàn ngành; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học gắn với công tác xét xử; làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong quá trình xây dựng các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
5. Về tình trạng thiếu cán bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương
Tình trạng thiếu cán bộ, Thẩm phán ở một số Tòa án địa phương, nhất là các Tòa án khu vực phía Nam, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc là một khuyết điểm, thiếu sót của ngành trong nhiều năm qua. Nguyên nhân của tình trạng này là do ở các địa phương này rất thiếu nguồn để tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, trong khi đó chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án hiện nay còn nhiều bất cập, nên chưa tạo điều kiện để thu hút cán bộ có trình độ cho Tòa án, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, ngành Tòa án nhân dân cũng chưa có các giải pháp đồng bộ, toàn diện trong việc tìm và tạo nguồn tuyển dụng cán bộ, bổ nhiệm Thẩm phán cho các địa phương này.
Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao sẽ chủ động phối hợp với các cơ sở đào tạo Đại học luật để tìm nguồn cán bộ tuyển dụng cho các Tòa án, trong đó đề xuất thực hiện chế độ cử tuyển, hỗ trợ kinh phí đào tạo đối với con em các dân tộc vùng sâu, vùng xa để tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án ở những địa phương này. Nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về cơ chế đảm bảo việc chủ động kinh phí của Tòa án trong công tác đào tạo để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Tòa án nhân dân xây dựng và thực hiện Chiến lược cán bộ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chuẩn bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, kế hoạch đào tạo và giáo trình, tài liệu để thực hiện chức năng đào tạo theo kết luận của Bộ Chính trị, nhằm chủ động trong công tác tạo nguồn cán bộ và bổ nhiệm Thẩm phán. Đề xuất với các cơ quan hữu quan sớm nghiên cứu, sửa đổi chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ khác phù hợp với đặc thù về tính chất và trách nhiệm nghề nghiệp của Thẩm phán và cán bộ, công chức Toà án, giúp cho ngành Tòa án có điều kiện thu hút, tuyển chọn những người có đủ tiêu chuẩn vào công tác trong ngành.
6. Về tình trạng cán bộ, công chức Tòa án vi phạm kỷ luật
Nguyên nhân là do một số cán bộ, Thẩm phán còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân; thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống; chưa ý thức rõ trách nhiệm, đạo đức, tác phong của người cán bộ Tòa án; có lối sống buông thả, thực dụng, cơ hội; chưa thực hiện nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Lãnh đạo một số Tòa án địa phương chưa làm tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, Thẩm phán; trình độ quản lý còn hạn chế, chưa sâu sát trong công tác quản lý cán bộ, thiếu những hình thức, biện pháp thích hợp để quản lý, kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, Thẩm phán nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn ngay từ đầu đối với những biểu hiện sai trái của Thẩm phán, cán bộ, công chức để phòng ngừa vi phạm; chưa làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ nên việc phòng ngừa chưa cao.
Để khắc phục khuyết điểm, thiếu sót này, ngành Toà án nhân dân sẽ chú trọng hơn nữa về chất lượng cán bộ ngay từ khâu tuyển dụng, đảm bảo về tiêu chuẩn chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tư cách đạo đức; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm trong công tác của cán bộ, công chức; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ để phát hiện kịp thời những sai sót của cán bộ, Thẩm phán, kiên quyết không bổ nhiệm, bổ nhiệm lại những Thẩm phán có sai phạm nghiêm trọng trong công tác; những trường hợp có dấu hiệu phạm tội thì chuyển cho cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật; tiếp tục tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân”.
B. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Một số kiến nghị với Đảng, Nhà nước và các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
Để giúp cho các Tòa án hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình, Tòa án nhân dân tối cao có một số kiến nghị như sau:
- Đề nghị Bộ Chính trị sớm có kết luận về việc thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao trong việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện nội dung này.
- Đề nghị Quốc hội bổ sung nhiệm vụ phát triển án lệ cho Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình xem xét sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Xem xét thay đổi cơ chế phân bổ và sử dụng kinh phí cho ngành Tòa án nhân dân theo hướng, kinh phí hoạt động hàng năm của các Tòa án sẽ do Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Chính phủ để xây dựng dự toán và trình Quốc hội; sau khi được Quốc hội thông qua, giao Tòa án nhân dân tối cao chủ động phân bổ, sử dụng và quản lý nguồn kinh phí này.
- Đề nghị Chính phủ nghiên cứu sửa đổi các quy định liên quan tới chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức Tòa án phù hợp với đặc thù công tác Tòa án; chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương tăng cường sự phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các Tòa án trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, phối hợp và hỗ trợ đối với hoạt động của các Tòa án địa phương, đặc biệt là trong quá trình triển khai thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực sau khi có ý kiến của Bộ Chính trị và trong công tác tổ chức cán bộ của các Tòa án địa phương, cũng như hỗ trợ các điều kiện vật chất, giúp các Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
2. Một số kiến nghị, đề xuất của các Tòa án địa phương
Từ thực tiễn hoạt động của mình, các Tòa án địa phương có một số kiến nghị như sau:
- Về công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao tăng cường làm tốt hơn nữa công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tập trung vào một số vấn đề vướng mắc trong giải quyết các tranh chấp về đất đai, những vấn đề còn có nhận thức khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; việc áp dụng Luật Tố tụng hành chính, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật tố tụng dân sự; Luật Phòng, chống mua bán người… Hướng dẫn thống nhất các nội dung liên quan tới nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án. Hệ thống hóa các văn bản liên quan tới chính sách, pháp luật về quản lý đất đai.
- Về công tác tổ chức, cán bộ, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao sớm bổ sung biên chế cán bộ cho các Tòa án địa phương; sớm có hướng dẫn về một số vướng mắc trong công tác tổ chức cán bộ; đề xuất sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án như: chế độ thâm niên ngành (thay vì thâm niên nghề như hiện nay), về ngạch lương của Thẩm phán ...; sửa đổi một số quy định liên quan tới công tác thi đua khen thưởng.
- Về công tác tăng cường cơ sở vật chất, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất; bổ sung các trang thiết bị, điều kiện, phương tiện làm việc cho các Tòa án và chú trọng hơn tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án.
- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao tăng cường làm tốt hơn nữa công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong toàn ngành; thường xuyên tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm công tác xét xử để khắc phục tình trạng án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
C. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC
CỦA NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG NĂM 2013
Từ thực tiễn công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án của ngành Tòa án nhân dân trong năm 2012 cho thấy, tình hình tội phạm, các tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính còn diễn biến phức tạp với xu hướng gia tăng về số lượng. Đồng thời với vị trí trung tâm trong cải cách tư pháp đang đặt ra cho ngành Tòa án nhân dân nhiều nhiệm vụ rất nặng nề. Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của mình, một số nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành Tòa án nhân dân trong năm 2013 được xác định là:
1. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc các văn kiện đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, nhất là việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp, gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của ngành với việc thực hiện các yêu cầu của cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt chú trọng việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện các đề án phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp, trong đó tập trung vào các đề án theo sự phân công của Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, đặc biệt là việc hoàn thiện Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực theo Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Đề án tăng cường cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ cho ngành Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới. Tổ chức thực hiện tốt các đề án khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt một cách quyết liệt, nghiêm túc nhưng thận trọng, trong đó phải có những bước đi phù hợp mang tính đột phá, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc về sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động của Tòa án.
2. Tiếp tục xác định việc đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy định của pháp luật; thực hiện đồng bộ các giải pháp về nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; đổi mới thủ tục hành chính tư pháp và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tại Tòa án là khâu đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử theo hướng đẩy nhanh tiến độ và bảo đảm chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án phải đúng pháp luật, thực sự mang lại công lý cho xã hội. Đồng thời tập trung làm tốt công tác hòa giải trong giải quyết các vụ việc dân sự và tăng cường đối thoại trong giải quyết các vụ án hành chính; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật và tình trạng các bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự; khắc phục triệt để việc để các vụ án quá thời hạn xét xử do lỗi chủ quan của Tòa án hoặc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm; giải quyết dứt điểm các vụ án lớn, trọng điểm; tăng cường công tác xét xử lưu động đối với các vụ án hình sự; đảm bảo việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật.
Xây dựng cơ chế và thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các đơn khiếu nại về tố tụng, đơn tố cáo cán bộ và đặc biệt là các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, phấn đấu giải quyết đạt trên 60% các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc thẩm quyền, khắc phục triệt để tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị, nhưng sau đó người có thẩm quyền lại kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm; nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhằm giảm tối đa những vụ việc phải xem xét, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Làm tốt công tác thi hành án hình sự của ngành Toà án nhân dân, đảm bảo ra quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn đối với 100% người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật; đảm bảo việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật.
3. Tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Toà án trong sạch, vững mạnh; chú trọng việc bổ sung cán bộ, Thẩm phán cho các Tòa án nhân dân cấp huyện, nhất là các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải giải quyết; thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn ngành. Thực hiện rà soát bổ sung quy hoạch, luân chuyển đội ngũ cán bộ lãnh đạo Tòa án các cấp; làm tốt công tác đánh giá cán bộ để lựa chọn những người có đủ trình độ, năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có quan điểm đổi mới và quan điểm quần chúng, hết lòng, hết sức phụng sự công lý, phụng sự nhân dân để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị theo hướng, nếu để xảy ra tiêu cực, tham nhũng mà đơn vị, tổ chức cơ sở Đảng không tự phát hiện đấu tranh xử lý thì người lãnh đạo trực tiếp và người đứng đầu đơn vị phải liên đới chịu trách nhiệm, ngược lại nếu đơn vị, tổ chức cơ sở Đảng tự phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm thì được xem xét biểu dương, khen thưởng. Xây dựng các quy định, quy chế tăng cường kỷ luật công vụ, về cơ chế giám sát việc thực hiện trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, nhất là trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án và công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với tập thể và cá nhân cán bộ, công chức Toà án có vi phạm, nhất là các trường hợp kết án oan người không có tội, cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng, những trường hợp có tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa cao do lỗi chủ quan của Thẩm phán hoặc các trường hợp sai sót do lỗi chủ quan gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
4. Tổ chức thực hiện tốt việc lấy ý kiến của cán bộ, công chức trong toàn ngành về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung, trên cơ sở đó tổng hợp và tiếp tục nghiên cứu đề xuất, kiến nghị những nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp, nhất là những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án. Nghiên cứu cơ chế giải quyết tại Tòa án đối với các vi phạm hành chính liên quan tới hạn chế các quyền tự do của công dân. Tổng kết, đánh giá về tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Khẩn trương hoàn thiện các dự án Luật, Pháp lệnh được giao chủ trì soạn thảo theo đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng, đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ việc tổng kết 10 năm thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và xây dựng dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Tiến hành xây dựng dự án Luật Phá sản (sửa đổi), tham gia tích cực vào việc soạn thảo các dự án luật khác có liên quan. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử; thường xuyên rà soát, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử của các Tòa án. Nghiên cứu đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về việc phát triển án lệ theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
5. Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, giáo trình, tài liệu để thực hiện tốt công tác đào tạo theo Thông báo kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của Bộ Chính trị về việc đào tạo cán bộ của ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án các cấp để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Tòa án với các hình thức như: đào tạo Thẩm phán, đào tạo cán bộ quản lý, đào tạo chuyên gia pháp luật và các chức danh khác. Đảm bảo cán bộ khi được quy hoạch, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo hoặc ngạch Thẩm phán, công chức cao hơn phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức bổ sung, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở cương vị mới. Cùng với việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng việc bồi dưỡng các kiến thức xã hội, khả năng sử dụng các kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, nhất là ở cấp huyện. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghiên cứu triển khai đề án đào tạo nguồn cán bộ Tòa án là con em dân tộc thiểu số, gia đình chính sách ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa để bổ sung cán bộ cho Tòa án ở các địa phương này.
6. Tăng cường và mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế; tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế liên quan tới công tác Tòa án; chuẩn bị tốt nguồn nhân lực tham gia vào các định chế tài phán quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế theo chủ trương và sự phân công của Đảng, Nhà nước. Tiếp tục tăng cường thực hiện thỏa thuận hợp tác quốc tế với Tòa án các nước mà Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là các nước bạn Lào và Cămpuchia. Tiếp tục triển khai thực hiện đề án tăng cường năng lực cho ngành Tòa án Lào và Cămpuchia mà Tòa án nhân dân tối cao đã ký kết.
7. Tập trung kinh phí và xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo, mở rộng trụ sở làm việc cho Toà án nhân dân các cấp, đảm bảo đáp ứng yêu cầu hoạt động hiện nay của các Tòa án và có tính đến việc đổi mới mô hình tổ chức Tòa án các cấp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường hơn nữa việc bổ sung các trang thiết bị làm việc của Tòa án các cấp.
8. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc công khai, minh bạch các hoạt động của Toà án theo quy định của pháp luật; đổi mới thủ tục hành chính- tư pháp nhằm đảm bảo công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi giải quyết công việc tại Tòa án. Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành ở Tòa án các cấp theo hướng phân công, phân cấp hợp lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm công tác đối với từng cấp Tòa án, từng bộ phận, cá nhân trong cơ quan, đơn vị; thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng, chống tham nhũng; tiếp tục và kiên quyết thực hiện chủ trương định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ; triển khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
9. Đề cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng; tiêu chí hóa lời huấn dạy của Bác đối với công tác Tòa án; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” trong toàn ngành, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Kịp thời khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác và tuyên dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước của ngành. Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới tổ chức Hội nghị Thẩm phán tiêu biểu toàn quốc.
10. Tăng cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án theo Đề án tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Tòa án giai đoạn 2011 – 2015.
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ công tác trong năm 2013, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đơn vị trong toàn ngành phải xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 được đề ra tại Hội nghị này; cán bộ, công chức trong toàn ngành cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, không ngừng học tập rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đồng thời nỗ lực phấn đấu hơn nữa trên mỗi cương vị công tác của mình
Nơi nhận: - Chủ tịch nước; - Uỷ ban thường vụ Quốc hội - Văn phòng Chủ tịch nước; - Các đơn vị thuộc TANDTC; - TAND và TAQS các cấp; - Lưu VP, Vụ TKTH TANDTC. -- Văn phòng trung ương Đảng; | | TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH ÁN (đã ký) Nguyễn Hòa Bình |